Lời nói đầu:
Hội Tao Đàn là hội các nhà thơ,nhà văn đầu tiên tại Việt Nam được thành lập bởi vua Lê Thánh Tông-đây là một vị vua nổi tiếng khoan hòa, giỏi chính trị cũng như thơ văn. Có thể nói sơ lược về hôi Tao Đàn như sau
Hội Tao đàn Nhị thập bát Tú (28 thành viên), hay còn gọi là Tao Đàn Lê Thánh Tông, một hội thơ ca do vua Lê Thánh Tông sáng lập và làm chủ soái, cùng hai phó soái là Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận. Đây là tập hợp các nhà thơ nổi tiếng ở Thăng Long cuối thế kỷ 15.
Nay tôi thiết nghĩ anh em lớp 7C ta cũng đâu kém họ nên lập ra hội Tao Đàn(Tao Nghe) Ngũ thập tam tú(53 thành viên) này.
Trong topic này chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ những bài văn, bài thơ hay do chúng ta viết hoặc cũng có thể là những bài thơ, bài văn yêu thích của chúng ta, xin mọi người hãy hết lòng ủng hộ
Mở đầu cho topic tôi xin post lên một số bài thơ khác của các tác giả, nhà thơ trong chương trình đã học lớp 7 để các bạn biêt thêm:
1.Bà Huyện Thanh Quan:
Đền Trấn Vũ
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thương, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười.
Cảnh chiều hôm
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn ?
Cảnh thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Chùa Trấn Bắc
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu
Chiều hôm nhớ nhà
Vàng toả non Tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấy là ?
Qua đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá ,đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Thăng Long Hoài cổ
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
2.Xuân Quỳnh:
Sóng
Dữ dội và dịu êm
A`o ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời các trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
29-19-1967.
Xuân Quỳnh
__________________
Thơ tình cuối mùa thu
Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã bao mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ.
Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...
- Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may.
Xuân Quỳnh
__________________
.
Tặng Quỳnh - Thơ
Mẹ đan tấm áo nhỏ
Bây giờ đang màu xuân
Mẹ thêu vào chiếc khăn
Cái áo và cái lá
Cỏ bờ đê rất lạ
Xanh như là chiêm bao
Kìa bãi ngô, bãi dâu
Thoáng tiếng cười đâu đó.
Mẹ đi trên hè phố
Nghe tiếng con đạp thầm
Mẹ nghĩ đến bàn chân
Và con đường tít tắp
Bỗng như lên tiếng hát
Từ màu mạ dưới đồng
Từ hạt cây trong rừng
Từ cánh buồm trên biển
Thường trong nhiều câu chuyện
Bố vẫn nhắc về con
Bố mới mua chiếc chăn
Dành riêng cho con đắp
áo con bố đã giặt
Thơ con bố viết rồi
Các anh con hỏi hoài:
- Bao giờ sinh em bé?
Cả nhà mong con thế
Con chả biết được đâu
Mẹ ghi lại để sau
Lớn lên rồi con đọc
1-1975
__________________
Sẽ có mãi cô bé mười sáu tuổi
Bài hát tình yêu em hát ngày xưa
Những mơ ước chờ mong tuổi trẻ
Phố xá xanh trong chiều đầy gió
Phông màn nhung, quá khứ của đời em
Về đâu rồi điệu hát thân quen
Những tà áo muôn mùa rực rỡ
Dòng sông chảy suốt bài ca một thuở
Những khu rừng, thành phố, xóm làng xa...
Về đâu rồi cô bé ngày xưa
Mười sáu tuổi đâu rồi năm tháng cũ
Dòng nhật ký còn nguyên trong cuốn sổ
Về những làng những phố những tình yêu
Chiều mùa xuân nước xiết chân cầu
Nhà hát lên đèn trong tiếng nhạc
Bài hát nói về bao điều khao khát
Vẫn tình yêu muôn thuở tự ngày xưa
Phông màn xanh, thời gian của bây giờ
Người đứng hát trẻ trung như lời hát
Gió thao thức những chân trời phiêu bạt
Thổi điên cuồng trên tà áo thơ ngây
A mùa xuân như cầm được trên tay
Và tuổi trẻ vẫn muôn đời tiếp nối
Sẽ có mãi cô bé mười sáu tuổi
Dẫu tóc em năm tháng đổi thay màu.
11-1982
__________________
Tự hát
Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
Trái tim em anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nên nếu cần anh bán nó đi ngay
Em cũng không mong nó giống mặt trời
Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống
Lại mình anh với đêm dài câm lặng
Mà lòng anh xa cách với lòng em
Em trở về đúng nghĩa trái tim
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết lấy lại những gì đã mất
Biết rút gần khong cách của yêu tin
Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu
Mùa thu nay sao bão mưa nhiều
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng
Di đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn
Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh có khi chết đi rồi
(Xuân Quỳnh)
(Trích một số bài tiêu biểu chứ Xuân Quỳnh có nhiều bài lắm)
3.Nguyễn Khuyến(Nhà thơ của đồng quê)
Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến – 阮勸
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau,
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Thu Vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc ánh trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào ?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. (1)
o0o
(1) Ông Đào: tức Đào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn, nổi tiếng thanh cao.
Thu Điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo,
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu Ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Những bài tiêu biểu, ngoài ra còn một số vài như tự trào, tự thuật)
4.Nguyễn Trãi
Bình Nam Dạ Bạc
Phiếm phầm cao chiếm* vãn phong khinh
Mộ túc Bình Nam (1) cổ huyện thành
Đăng ảnh chiếu nhân hòa nguyệt ảnh
Thụ thanh xao mộng tính than thanh
Hồ sơn hữu ước vi sơ chí
Tuế nguyệt như lưu mạn thử sinh
Dạ bán thú lâu xuy họa giác
Khách trung thê sảng bất thăng tình.
Dịch Nghĩa:
Cánh buồm giương phập phồng trong gió chiều thổi nhẹ - Buổi tối tá túc ở huyện thành cổ Bình Nam - Ánh đèn hòa cùng ánh trăng chiếu vào người - Tiếng cây cùng với tiếng thác nước xua giấc mộng - Chí nguyện trước với núi sông giờ đã bị vi phạm - Năm tháng như trôi qua cuộc đời uổng phí - Nửa đêm tù và thổi trên lầu canh - Trong lòng khách thương xót khôn xiết.
Dịch Thơ:
Đêm Đậu Thuyền Ở Bình Nam
Buồm lộng chiều hôm ngọn gió êm
Bình Nam huyện cũ ghé qua đêm
Trăng đèn bàng bạc chung luồng sáng
Cây suối rì rào động giấc chiêm
Trót nguyện non sông đành bội bạc
Tiếc đời năm tháng phí triền miên
Giữa đêm tiếng ốc vang chòi gác
Dạ khách buồn đau lắm nỗi niềm.
Bản dịch của Lê Cao Phan
Chú thích:
* Có một phiên âm khác là triển
(1) Bình Nam: một huyện ngày xưa thuộc phủ Tầm Châu trên sông Tầm Giang (Quảng Tây, Trung Quốc).
Bạch Mai
Giữa mùa đông, lỗi thức xuân,
Nam chi nở, cực thanh tân.
Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch,
Đáy nước, ngờ là mặt Thái Chân.
Càng thủa già, càng cốt cách,
Một phen giá , một tinh thần.
Người cười rằng kém tài lương đống,
Thửa việc điều canh, bội mấy phần
Côn Sơn Ca(đầy đủ+ một bản dịch khác)
Côn Sơn (1) hữu tuyền,
kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
vạn lý thúy đồng đồng (2) ,
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kỳ trắc.
Vấn quân hồ* bất quy khứ lai (3) ,
Bán sinh trần thổ trường giao cốc (4) .
Vạn chung cửu đỉnh (5) hà tất nhiên,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
Quân bất kiến Đổng Trác (6) hoàng kim
doanh nhất ổ,
Nguyên Tải (7) hồ tiêu bát bách hộc.
Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề (
,
Thú Dương ngạ tử bất thực túc.
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
Diệc các tự cầu kỳ sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất sinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục.
Nhân gian nhược hữu Sào, Do (9) đồ,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
Dịch Thơ:
Côn Sơn có suối khe róc rách
Lắng nghe như tiếng phách gần xa
Có mưa gội đá chan hòa
Một màu xanh biếc mượt mà nệm rêu
Thông tùng mọc rảnh đều vạn dặm
Quả là nơi êm thắm nghỉ ngơi
Rừng tre nghìn mẫu xanh tươi
Ngâm nga ta cứ thảnh thơi một mình.
Tự hỏi sao chẳng đành trở lại
Đà nửa đời khổ ải gian truân
Sá gì danh lợi phù vân
Rau rừng nước suối đủ cần ngày qua.
Người chẳng thấy, giàu xưa nhắc mãi
Đổng Trác, vàng, Nguyên Tái, hồ tiêu?
Nhà Chu, Bá Thúc đâu theo
Thú Dương ẩn trốn, chịu điều thiệt thân.
Hiền ngu rõ, dù phân hai phía
Sở dục đều một nghĩa như nhau
Trăm năm chẳng trước thì sau
Khác gì cây cỏ, lọ cầu bi hoan.
Tươi tốt đấy, héo tàn cũng đấy
Động núi như lầu giãy dọc ngang
Xuôi tay, hèn khác gì sang
Vinh hơn gì nhục, một đường ấy thôi.
Sào, Do ai chuộng trên đời
Hãy vào chốn núi nghe lời ta ca.
Bản dịch của Lê Cao Phan
Chú thích:
* Chép theo Ức Trai Thi Tập là hồ. Ức Trai Tập và Nguyễn Trãi Toàn Tập ghi là hà, nghĩa cũng tương tự.
(1) Côn Sơn: Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.
(2) Có sách chép: Côn Sơn hữu tùng, vạn cái thúy trùng trùng.
(3) Quy khứ lai: bỏ đi về. Lấy theo ý của bài Quy Khứ Lai Từ của Đào Tiềm đời Tấn, Trung Quốc.
(4) Giao, cốc: chất keo và cái còng tay. Ý nói sự ràng buộc.
(5) Chung, đỉnh: vật để đo lường và cái vạc lớn. Khi nói miếng đỉnh chung là ngụ ý hưởng nhiều bổng lộc.
(6) Đổng Trác: người cuối đời Đông Hán (Trung Quốc), một đại thần gian ác. Khi vua Hán Linh đế chết, Đổng Trác ở chức Tiền tướng quân phế vua thiếu đế và giết Hà Thái Hậu, tự phong chức Thừa tướng, chuyên quyền giàu sang rất mực. Nhưng cuối cùng bị Lữ Bố theo mưu Vương Doãn giết chết, gia sản bị tịch thu.
(7) Nguyên Tái: người đời Đường (Trung Quốc) thời vua Đại Tông giữ chức Trung thư thị lang, chuyên quyền, tham nhũng, vua khuyên nhiều lần không được, bắt phải tự vẫn.
(
Bá Di, Thúc Tề: tương truyền là hai anh em con vua nước Tô Trúc đời nhà Thương. Khi Võ Vương nhà Chu diệt nhà Thương, hai anh em can không được (lấy lẽ tôi không đánh vua) nên không phục, quyết không ăn thóc nhà Chu, bỏ vào núi Thú Dương, chịu ăn rau mà chết đói.
(9) Sào, Do: Sào Phủ và Hứa Do, hai cao sĩ đời thượng cổ Trung Quốc và đều không ưa danh lợi, lên núi ở ẩn. Tương truyền vua Nghiêu hai lần mời Hứa Do, định nhường ngôi trị vì thiên hạ nhưng Hứa Do đều từ khước, lại còn ra bờ sông rửa lỗ tai! Sào Phủ dắt trâu xuống định cho trâu uống nước, nhưng khi nghe Hứa Do nói vì sao rửa tai bèn kéo trâu lên, sợ nước ấy sẽ làm bẩn miệng trâu!
Chí Linh Sơn Phú
Rồng thiêng dậy, bay rợp Lam Kinh
Giáo trời chỉ, dẹp tan bắc binh
Dựng nước thành công nhiều khó nhọc
Miền Tây sông núi hẳn anh linh
Ôi ! Vua ta tài thánh vũ
Đứng lên bốn phương kinh dinh
Vận nước gian truân, khổ tâm lo tính
Thấy lẽ tất yếu của trời càng quyết chí để nghiệp thành
Nhờ thế ngày nay Hồ Việt đưọc một nhà,mà núi này cũng lưu danh muôn thuở
Khi nghĩa quân mới dấy là lúc thế giặc đương hăng
Anh hào cả nước lưa thưa như lá thu gặp sương
Chí nuốt giặc Ngô, ai Chủng, ai Lãi
Mưu dựng nghiệp Hán, ai Bình, ai Lương
Vua ta ẩn náu núi này, đành bặt tăm hơi, bưng kín ánh sáng
Vợ con lưu lạc,quân sĩ tha phương
Trong cảnh khốn vẫn bền lòng, vững tin ở ngày hưng vượng
Lấy giáo sắt làm áo mặc, lấy rễ lau làm quân lương
Chí rộn ràng lo khôi phục, lòng u uất thật khôn lường
Tưởng núi này lúc ấy khác nào đất Mang Đăng khi Hán hoàng khởi nghiệp
Biết người, biết mình, khi mềm, khi mạnh
Chờ thời, rình mệt, giấu nhọn, che sắc
Gôi củi nằm gai, ngậm cay nuốt đắng
Lo rửa nhục trước,g iành lại quê hương
Tưởng núi này khi đó khác nào đất Cối Kê thời Việt vương ẩn náu
Thế rồi, thu nhặt tàn quân,nuôi dưỡng ân cần
Trong sửa chiến cụ, ngoài giả hoà thân
Quyên tiền mộ lính, giết voi khao quân
Ai cũng thân người trên, chết cho người trưởng, cố sức để đền ân
Từ đấy,luyện quân kén tướng, đánh địch ra kỳ
Chết vinh hơn sống nhục, biết quân ta dùng đuợc
Lấy của giặc đánh giặc, thu quân lương vũ khí
Vẹn toàn vững kế, một mũi tên không để phí
Cầm Bành rạp đầu dâng đất
Phương Chính khiếp vía chạy dài
Bèn giữ hiểm để lập công
Lại nhiều phương lừa đánh địch
Đêm lửa đốt, ngày cờ bay
Sớm chiếm Đỗ Gia, giành thế tiện trên núi ấy
Trước vượt Khả Lưu, đánh đắm địch trên sông này.
Nhưng thịnh đức của vua ta ngày nay,chỉ quy mô rộng lớn của Hán Cao Tổ mới sánh kịp
Còn như Câu Tiễn, ngoài chí phục thù là đáng kể, thì trong muôn phần không so được với vua ta
Đến như : uy thần chẳng giết, đức lớn hiếu sinh
Nghĩ kế nước nhà trường cửu
Tha cho mười vạn hàng binh
Gây lại hoà hảo hai nước
Dập tắt chiến tranh cho muôn đời
Địch phải theo thượng sách : hai nước vẹn toàn dân được an ninh
Như thế thì thịnh đức của vua ta Cao tổ nhà Hán sao sánh kịp
Vua ta phải sánh ngang hàng với hai đế ba vương lừng danh thuở trước
Than ôi ! Xưa nay đi lại, trăm đời nên nghĩ
Nghiêu nổi dậy từ Đường hầu, Thuấn khởi dậy tự hàn vi
Thành Thang dấy nghĩa nơi đất bạc, Thái vương khởi binh tại núi Kỳ
Nhiều hoạn nạn là nền dựng nước
Lắm lo toan là gốc trị vì
Biến cố trải nhiều thì suy nghĩ sâu
Mọi việc lo trước thì thành công kì
Nối nghiệp đế vương,không thể khác thế
Vậy thì vua ta dựng nghiệp thật đã tự núi này trở đi
Công cao đức cả của vua ta cũng sẽ cùng núi này hùng vĩ muôn đời
Bèn cúi đầu chắp tay, dâng lời ca rằng
trời sinh vua thánh,đất dấy nghiệp vương
Càn khôn mờ mịt, vận hội phi thường
Nhìn Linh Sơn cao vút, nhớ những ngày gian khổ
Vỗ nghiệp vương bền vững, không một ngày xao lãng
Xin ghi thịnh đức vào đá,lưu truyền bất hủ
Ngàn vạn đời sau, vẫn cùng trời đất dài lâu.
5.Lý Bạch
TƯƠNG TIẾN TỬU(bài hay nhất của ông)
Quân bất kiến
Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi !
Hựu bất kiến
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ti mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Sầm phu tử! (1)
Đan Khâu sinh.! (2)
Tương tiến tửu,
Bôi mạc đình!
Dữ quân ca nhất khúc,
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính.
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,
Đãn nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần Vương tích thời yến Bình Lạc, (3)
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước.
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
Kính tu cô thủ đối quân chước.
Ngũ hoa mã,
Thiên kim cừu,
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu
Lý Bạch
Ghi Chú:
Tương Tiến Tửu: tên một khúc nhạc cổ, nghĩa là "Mời Uống Rượu".
(1,2) Sầm phu tử, Đan Khâu sinh: Sầm Trưng Quân và Nguyên Đan Khâu
đều là bạn thân của Lý Bạch.
(3) Trần vương: Trần Tư vương Tào Thực, thi nhân thời Tam quốc, con Tào Tháo.
Bài "Danh đô thiên" của Tào Thực có câu:
Quy lai yến Bình Lạc, Mỹ tửu đẩu thập thiên.
(Quay về mở tiệc cung Bình Lạc, Rượu ngon mười ngàn đấu.)
MỜI UỐNG RƯỢU
(bản dịch không hay lắm, có bản dịch hay hơn nhưng trên mạng không có)
Bạn chẳng thấy:
Nước sông Hoàng từ trời cao đổ xuống
Chảy ra khơi cuồn cuộn chẳng quay về
Gương lầu cao sáng soi sầu bạc tóc
Sớm tơ xanh chiều tuyết trắng lê thê
Đời đắc ý cho niềm vui tận hưởng
Chén vàng kia đừng cạn dưới trăng ngàn
Trời sinh ta tất có nơi hữu dụng
Tiêu hết đi rồi lại có nghìn vàng
Giết bò dê để tìm vui lạc thú
Uống một lần ba trăm chén như không
Bác Sầm, Đan! đừng bao giờ ngưng lại
Rượu dâng lên hãy hát khúc nghe cùng
"Chuông trống giữa tiệc ngon chẳng quý
Tỉnh làm chi, thích chí say dài
Thánh hiền bặt tiếng xưa nay
Chỉ dân uống rượu mới hoài lưu danh !
Bình Lạc có Trần vương yến tiệc
Rượu vạn đồng, mặc sức vui cười
Chủ sao bảo thiếu tiền chơi
Mau mua rượu cùng bạn đời nâng ly !
Ngựa năm sắc, áo cừu bông ấm
Hãy đem đi đổi lắm rượu ngon
Rượu ngon cạn chén vui chung
Mối sầu muôn thuở ta cùng phá tan"
6.Đỗ Phủ
Mao ốc vị thu phong sở phá ca(phiên âm hán việt)
Bát nguyệt thu cao phong nộ hào,
Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao.
Mao phi độ giang sái giang giao.
Cao già quái quyến trường lâm sao,
Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao.
Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc.
Công nhiên bão mao nhập trúc khứ,
Thần tiều khẩu táo hô bất đắc.
Qui lai ỷ trượng tự thán tức.
Nga khoảnh phong định vân mặc sắc,
Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
Bố khâm đa niên lãnh tự thiết.
Kiều nhi ác ngọa đạp lý liệt.
Sàng đầu ốc lậu vô can xứ,
Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt.
Tự kinh táng loạn thiểu thụy miên,
Trường dạ chiêm thấp hà do triệt.
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động an như san.
Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.
Thu hứng
Đỗ Phủ
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu Giáp, khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Cảm xúc mùa thu
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Nguyễn Công Trứ dịch
Hức, mệt quá, mai post tiếp. Có gì anh em bổ sung thêm